Khi lên ngôi, Tải Thuần
nhà Thanh chỉ mới bốn tuổi, mọi việc đều do hai thái hậu “thùy liêm thích
chính” (rủ mành và nghe việc nước). Từ Hi thường xuyên một mình triệu kiến quần
thần việc gì cũng không thương lượng với Từ An Thái hậu, Từ An rất bất bình.
Đầu năm 1881, Từ Hi đột
nhiên lâm trọng bệnh, dù đã mời nhiều danh y chữa trị nhưng đều không có kết quả.
Sau đó bà uống những loại thuốc dùng để bồi dưỡng sau khi sinh để trị liệu thì
“hiệu quả như thần”. Thế là Từ An thái hậu biết Từ Hi thiếu đứng đắn, bèn mượn
cớ chúc mừng Từ Hi hồi phục sức khỏe, đem rượu đế đến cung Chung Túy, cùng uống
với Từ Hi. Uống được 3 tuần, Từ An sau khi cho người hầu lui, lại nói đến chuyện
hoàng đế Hàm Phong lúc cuối đời.
Hơn 20 năm nay hai cung
ăn ở với nhau xem như rất tốt, có một chuyện từ lâu ta đã muốn nói với muội. Mời
muội xem một thứ.
Từ An nói rồi lấy ra từ
trong tráp một cuộn vải vàng. Đây là chỉ thị viết tay Hàm Phong hoàng đế lúc
lâm chung viết cho Từ An Thái hậu, đại ý nói nếu sau này có phi tần nào không
an phận, có thể căn cứ theo chiếu mệnh này để thanh trừ người đó. Từ Hi sau khi
nghe xong, mặt biến sắc.
Từ An Thái hậu hoàn
toàn xuất phát từ lòng hảo tâm nói cho Từ Hi biết chuyện này, muốn mượn di chiếu
này để khuyên Từ Hi luôn chú ý giữ gìn. Để tránh làm Từ Hi nghi kỵ Từ An đã thu
di chiếu tại đó, đốt dưới ánh nến và nói:
Tờ giấy này vô dụng rồi,
đốt đi là tốt nhất.
Từ Hi ngoài mặt cảm động
đến rơi nước mắt nhưng trong lòng lại có ý định xấu xa. Không lâu sau, Từ An
Thái hậu cảm mạo, tối hôm đó thì chết, trên thực tế là bị Từ Hi đầu độc.
Những người vì nói chuyện
thiếu thận trọng mà dẫn tới họa sát thân như Từ An có rất nhiều, Thẩm Đức Tiềm
cũng là một ví dụ tiêu biểu.
Nhà thơ, nhà phê bình
thơ nổi tiếng thời Thanh Thẩm Đước Tiềm đã từng làm đến chức Lễ bộ thượng thư,
sinh thời rất được Càn Long yêu mến. Mỗi khi đi năm tuần, Càn Long hoàng đế rất
thích đi khắp nơi để đề thơ. Mỗi khi có tác phẩm, Càn Long thường lệnh cho họ
Thẩm sửa giúp, thậm chí còn để họ Thẩm viết thay. Vốn tính khoe khoang, họ Thẩm
thường nói với các bạn thơ bài thơ nào là do mình sửa, bài thơ nào là do mình
làm thay, thậm chí còn đưa những bài thơ mình làm thay vào tập thơ của mình,
như vậy là đã đắc tội với hoàng đế. Sau đó, vì trong bài thơ Vịnh hắc mẫu đơn của họ Thẩm có câu “đoạt
chu phi chính sắc/ Dị chủng dã xưng vương” mà Thẩm Đức Tiềm bị bắt, sau khi chết
còn bị phanh thây. Ngục văn tự là một bảo bối của các vị vua Trung quốc chuyên
dùng để trị tội những văn nhân mặc khách. Điều này ít nhiều cũng liên quan đến
việc các văn nhân đời xưa một mặt tự cho mình thanh cao, mặt khác lại không thể
tách khỏi sự ân sủng của hoàng đế. Họ tự cao, thích khỏe khoang, xuất ngôn tùy
hứng mà không ngờ được sự hiểm ác của cuộc đời. vì lời nói mà gặp họa là chuyện
thường thấy ở các triều đại trung quốc cổ xưa, khó có thể quên được.
Cổ nhân nói:“Nột vi
quân tử, quả vi tiểu nhân” (nói năng từ tốn là quân tử, nói năng nhún nhường là
tiểu nhân). “họa từ miệng mà ra” không phải là ngụ ý là không cho chúng ta nói
mà là cảnh báo chúng ta khi nói chuyện nhất định phải thận trọng. Mở miệng nói
chuyện thì phải suy nghĩ, cân nhắc: vì sao phải nói, đối tượng nói là ai, nên
nói như thế nào. Tất cả những điều này đòi hỏi bạn phải có một hiểu biết nhất định.
Người xưa khi đối diện với vấn đề này thường đề xướng đạo lý: “đạo bất đồng, bất
tương vi mưu”, nhằm biểu đạt: “tư tưởng, quan niệm khác nhau thì không cùng
nhau bàn luận được”. Cách này vừa thể hiện rõ lập trường của bản thân vừa không
làm tổn thương lòng tự trọng của đối phương. “ Quân tử tuyệt giao, cũng không
nói những lời xấu xa” - đem triết lý giữ
mình này mở rộng ra có thể thấy cổ nhân rất xem trọng đạo xử thế. Dù nhìn thấu
bản chất của một sự việc, đôi khi bạn cũng không nên đem chân tướng sự việc nói
ra. Lúc này, chỉ có cách giả bộ không biết, bạn mới có thể giúp bản thân tránh
được họa. Bên trong sáng suốt, bên ngoài hồ đồ - đây mới là đạo lý giữ mình
khôn ngoan.
bài viết có liên quan:
0 nhận xét